Giới thiệu về Phủ Quảng Cung
“Tháng 8 giỗ cha, tháng 3 giỗ mẹ” – Câu thành ngữ không chỉ nhắc nhở mọi thế hệ người Việt Nam về truyền thống uống nước nhớ nguồn, tri ân những bậc anh linh có công với người dân và đất nước mà còn phản ánh đời sống văn hóa tinh thần phong phú thể hiện qua các lễ hội truyền thống của Việt Nam. “Cha” là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn – một trong 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. “Mẹ” là cách tôn xưng thân thiết, gần gũi đối với Thánh Mẫu Liễu Hạnh – một trong bốn vị thánh Tứ bất tử trong đời sống tâm linh của người dân Việt.
Tương truyền, Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh lần thứ nhất vào đêm mùng 6 tháng 3 năm Giáp Dần (1434), thời Lê Thái Tông, lấy tên là Phạm Thị Tiên Nga, trong một gia đình họ Phạm ở thôn Vĩ Nhuế. Từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, xinh đẹp, lớn lên không lấy chồng. Sau khi cha mẹ mất, bà đi khắp nơi cứu giúp dân lành: Đắp đê Đại Hà quanh xã, làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu ven sông, sửa nhiều đền, chùa, động viên trẻ em học tập…
Bà đóng góp nhiều công đức sửa chữa chùa Hương Sơn (Ý Yên), chùa Long Sơn, Thiên Thành (Hà Nam). Mẫu Phạm Thị Tiên Nga tức Liễu Hạnh hóa thân đêm mùng 3 tháng 3 năm Quý Tỵ (1473), niên hiệu Hồng Đức thứ tư, tại ấp Quảng Nạp, tổng Vĩ Nhuế, phủ Nghĩa Hưng, nay là thôn Tiến Thắng, xã Yên Đồng (huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).
Bà đóng góp nhiều công đức sửa chữa chùa Hương Sơn (Ý Yên), chùa Long Sơn, Thiên Thành (Hà Nam). Mẫu Phạm Thị Tiên Nga tức Liễu Hạnh hóa thân đêm mùng 3 tháng 3 năm Quý Tỵ (1473), niên hiệu Hồng Đức thứ tư, tại ấp Quảng Nạp, tổng Vĩ Nhuế, phủ Nghĩa Hưng, nay là thôn Tiến Thắng, xã Yên Đồng (huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).
Tương truyền, Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh ba lần. Câu đối treo tại Phủ Tiên Hương (Phủ Dầy, Nam Định) có ghi: “Tam thế luân hồi, vu Vỉ Nhuế, vu Vân Cát, vu Nga Sơn ngũ bách dư niên quang thực lục. Lịch triều ba cổn, vi đế nữ, vi đại vương, vi chúng mẫu, ức niên van cổ điện danh bang” (Ba kiếp giáng trần, ở Vỉ Nhuế, ở Vân Cát, ở Nga Sơn, đến nay đã hơn năm trăm năm sự tích sáng ngời trong sử sách. Các triều phong tặng là con vua, là đại vương, là Thánh Mẫu, Ngàn năm vạn thủa rạng non sông). Trong đó, thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam (nay là thôn Tiến Thắng, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định) chính là nơi ngài giáng sinh lần đầu.
Theo Quảng Cung Linh Từ phả chí do đệ nhị giáp tiến sĩ Quốc Tử Giám Tế tửu Khiếu Năng Tĩnh (người xã Châu Mỹ, huyện Đại An, nay là huyện Nghĩa Hưng, Nam Hà, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn, năm Tự Đức thứ 33, 1880): Tiên chúa Giáng sinh ngày 6/3 ở gia đình ông Phạm Đức Chính ở thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam vào năm Thiệu Bình nguyên Niên (1434) được đặt tên là Phạm Thị Nga hay Phạm Tiên Nga). Bà có nhan sắc nhưng không chịu lấy chồng, ở nhà phụng dưỡng cha mẹ, cứu giúp người nghèo, đắp đê Đại Hà quanh xã, làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu ven sông, sửa nhiều đền, chùa, động viên trẻ em học tập… Đêm mùng 3/3 năm Quý Tỵ niên hiệu Hồng Đức (1473) tiên chúa về trời, thọ 40 tuổi.

Để tri ân công đức của ngài, người dân trong vùng lập miếu trên nền nhà nơi bà sinh ra để thờ phụng, nay gọi là Phủ Quảng Cung (tục gọi Phủ Nấp). Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại nơi đây cũng là cô tổ của dòng họ Phạm. Đến các triều Lê, Nguyễn sau này đã sắc phong, rồi cho nhân dân tôn tạo, mở rộng thành Phủ Quảng Cung nguy nga, tráng lệ. Trong quá trình lịch sử, di tích trải qua rất nhiều những biến cố thăng trầm, có thời điểm còn bị hạ giải. Năm 1994, Phủ được chính quyền và người dân phục dựng lại trên nền đất cũ. Từ năm 2001 đến nay, dưới sự chủ trì của Thủ nhang Trần Thị Hồng Vân và nguồn kinh phí xã hội hóa, Phủ được xây dựng lại khang trang, thêm nhiều hạng mục, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng thờ Mẫu của người dân.

Công trình kiến trúc Phủ Quảng Cung ngày nay có quy mô bề thế gồm 7 gian tiền đường, 3 gian đệ nhị và tòa cung Thánh Mẫu, tường bao quanh, hồ bán nguyệt…. Trong phủ hiện còn lưu giữ nhiều đồ tế tự như: bát hương bằng đồng chạm “lưỡng long chầu nguyệt” phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê khắc chữ Hán “Quảng Cung linh từ”; 34 bản khắc gỗ nội dung của 64 quẻ thẻ cùng một số bia đá, sắc phong, hoành phi, câu đối ghi dấu sự tích và ca ngợi công đức của Thánh Mẫu. Trong số các di vật, cổ vật, giá trị nhất là Pho tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh tạc năm 1770. Không giống như các tượng thờ Thánh Mẫu ở những nơi khác, tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại Phủ Quảng Cung có nhiều điểm khác biệt, độc đáo với dáng ngồi khoan thai, nét mặt đoan trang, phúc hậu, mặc áo tứ thân, đầu đội mũ; các nếp áo được tạo tác giản dị với 2 lớp áo choàng ở ngoài và 1 chiếc yếm đào bên trong làm cho pho tượng trở nên gần gũi, bình dị.
Đặc biệt, tượng Mẫu Liễu Hạnh được xem là một trong những tác phẩm độc đáo nhất trong hệ thống các điêu khắc thờ Mẫu ở Việt Nam. Không giống như tượng Mẫu Liễu được thờ tại các nơi khác, tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại Phủ Nấp có nhiều điểm khác biệt, độc đáo. Mẫu Liễu có dáng ngồi xếp bằng rất khoan thai trong trang phục giản dị, nét mặt bình thản. Các nếp áo được tạo tác một cách giản dị với hai lớp áo choàng ở ngoài và một chiếc yếm đào phía bên trong làm cho pho tượng trở nên sống động, gần gũi.

Từ những giá trị tiêu biểu đó, năm 2005 Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định đã ra quyết định công nhận Phủ Quảng Cung là Di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh. Quần thể di tích lịch sử văn hóa Phủ Quảng Cung đã đón nhận Bằng bảo trợ di sản của Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam vào ngày 6/4/2011 và đã được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch xếp hạng “Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia” vào ngày 11/4/2013.

Ngày nay, lễ hội Quảng Cung được tổ chức từ ngày mùng 1 đến mùng 6 tháng 3 âm lịch. Đặc biệt, ngày mùng 4 có lễ rước kinh lấy nước, đêm mùng 4 có lễ tế nến. Đây là nét độc đáo của Phủ Quảng Cung vừa mang tính lễ nghi truyền thống, vừa mang tính nghệ thuật hấp dẫn trong sinh hoạt văn hoá tâm linh của cộng đồng, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Phủ Quảng Cung hiện là điểm du lịch văn hoá tâm linh, không chỉ của người dân Nam Định, mà còn thu hút đông đảo du khách thập phương đến hành hương chiêm bái cầu phúc, cầu lộc, cầu tài… Không chỉ vào chính hội hay những ngày rằm, mồng 1 âm lịch hàng tháng mà những ngày thường, lượng người đến thắp hương lễ bái và tham quan cũng rất đông.
Phủ Quảng Cung gắn bó thân thiết với người dân nơi đây là thế, bất cứ du khách nào đặt chân đến mà muốn tìm hiểu về lịch sử thì đều được người dân nơi đây chia sẻ rất thân mật, bởi vì Phủ cũng một phần gắn bó thân thiết với những con người nơi đây đã từ rất lâu.
