Chuyện kể về người Thủ nhang xây dựng bảo tồn Phủ Quảng Cung – Gần 20 năm gắn bó phục dựng Phủ Quảng Cung!

Phủ Quảng Cung còn gọi là Phủ Nấp ở thôn Tiến Thắng, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, là một trong 3 nơi thờ phụng, ghi dấu Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một trong “tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Thế nhưng ít ai biết được để có được sự uy nghi, trang nghiêm như hiện tại là sự đánh đổi những năm tháng vất vả gây dựng cải tạo của Nghệ nhân dân gian, Nghệ nhân Ưu tú Trần Thị Hồng Vân.

Chia sẻ về cơ duyên đã đưa nghệ nhân Trần Thị Hồng Vân đến với văn hóa tâm linh, Bà nói: “Cái số tôi nó lạ lắm. Biết bao việc cứ như có sự sắp sẵn, lần lượt dẫn tôi đi theo. Sinh ra ở làng An Thái, xã Bình Mỹ, huyện Bình Lục, một vùng quê trũng ngập quanh năm. Tôi tuổi Tuất, sinh năm 1946, sau cái năm làng tôi biết bao người phải ra đi vì cái đói Ất Dậu.Lớn lên, tôi xây dựng gia đình với người cùng làng. Cuộc sống nhà nông cứ vậy diễn ra trong ước mong “cơm no, áo ấm”. Rồi bốn đứa con, hai trai, hai gái lần lượt ra đời. Bước vào tuổi trung niên, không hiểu sao, tôi cứ hay ốm vặt, tính khí thất thường. Dặt dẹo nuôi con khôn lớn, tôi đi xem, một thầy đồng xã bên ghé tai thầm bảo: Cô có căn số. Nếu không hầu đồng mở phủ hoặc về công đức cho Thánh Mẫu ở Phủ Dầy thì khổ đấy! Nghe lời thầy, tôi bàn với chồng con, rồi khăn gói tìm về Tiên Hương, tự nguyện làm công đức cho vợ chồng ông Đức – vốn đang là thủ nhang nơi đây.

Năm 1999 tôi lại xin chuyển sang công đức cho phủ Bóng kề cận ngay phía đầu xã Kim Thái này. Ngày ấy, phủ Bóng còn hoang sơ lắm. Khói nhang gần như lạnh tanh. Mảnh đất nhỏ bé hiện tồn ngôi đền cũng khiêm tốn. Đêm nằm thao thức, nhớ chồng, nhớ con quá thể. Lại chập chờn trong mơ, Thánh Mẫu hiện về, như thầm nhủ tôi về với đất Mẫu bên phía Ý Yên, gần dòng sống Đáy.

Đầu năm 2000, tâm trí tôi suốt ngày chỉ hướng về phủ Nấp. Đang chông chênh tìm chỗ “an cư”, đùng một cái, đầu tháng 8 năm 2001, tôi nhận được giấy mời của Chủ tịch UBND xã Yên Đồng Nguyễn Văn Quang, mời tôi về làm chủ đề án khôi phục, tôn tạo phủ Nấp và toàn quyền đứng ra đảm trách nhang khói cho di tích tín ngưỡng này. Cứ như có Mẫu run rủi, chẳng cần ngẫm nghĩ gì lâu, tôi đồng ý với ý kiến lãnh đạo xã và đề nghị văn bản hóa các nội dung thỏa thuận đôi bên. Đúng ngày mùng Tám tháng 8, tôi cầm tờ Quyết định của chính quyền địa phương về phủ, mời bà con dân làng đến, chính thức thông báo về trọng trách hệ trọng này trước ban thờ Mẫu cùng dân làng và mong muốn mọi người đồng tâm hiệp lực cùng tôi chấn hưng cho nơi phụng thờ Thánh Mẫu.

Năm 2001, tôi về đây nhìn thấy ba gian là luồng, lúc đó nhân dân thờ thì tôi cũng chưa biết là tượng pháp thế nào, cũng chưa biết có một pho tượng đồng.
Không biết cơ duyên thế nào vì lúc đầu tôi định về nhà Trần, thế nhưng sau đó thấy lòng dân, tôi lại có mong muốn ở lại và càng ham mê xây dựng cải tạo, có lẽ một phần vì tự hào vì Đảng và nhà nước quan tâm.
Sau đó UBND xã Yên Đồng đã mang giấy cho mời tôi về, đồng thời mời lên xã họp kết hợp xây dựng cửa mẫu. Lúc đó cửa mẫu đã bị phá đi hoàn toàn đào thành ao cá, qua 7 năm, nhân dân đã dựng được ba gian nhà luồng và hai trái. Hồi đó, cứ mỗi xe cát về, tối đến tôi lại vận động dân, cứ mua hộp mì về lễ mẫu, bà con kéo cát xong đổ xuống ao thì tôi lại biếu một gói mì.

Hơn một tháng sau, ngày 23/9, tôi cùng thợ làm lễ động thổ, khởi công xây móng nhà Tổ. Ngày 14/10 đã tổ chức cất nóc. Lúc đó tôi rất phấn khởi, đi đâu kiếm đồng nào hay con cái cho là tôi mua vật liệu xây dựng, tiền cũng không nhiều nên toàn phải ứng trước một phần. Chỉ sau một năm, tôi đã hoàn thành hai cung Đệ nhất và Đệ nhị lộng lẫy”.
Lau giọt nước mắt, bà Vân ngậm ngùi nói: “Có lẽ Mẫu thương tôi, và nhân dân nên từ đó, rất nhiều người dân khắp nơi tìm về, người công đức gạch, người công đức xi măng, sắt thép.
Người nghèo không có của cải vật chất dâng Mẫu thì góp công sức hàng ngày. Thấy mọi người giúp đỡ như thế, tôi vui lắm và càng quyết tâm xây dựng phát triển, năm 2003 tôi làm tiếp cung Đệ tam và đến năm 2005 thì khánh thành”.
Những đóng góp của bà và nhân dân cũng đã được Chính phủ quan tâm. Năm 2006, trong một lần gặp Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, qua nói chuyện, Chủ tịch nước đã động viên bà và nhân dân cố gắng bảo tồn di sản, phát huy truyền thống.


Người ta có câu “Có công mài sắt có ngày nên kim”, những năm tháng vất vả đã được đền đáp. Cụ thể, giữa năm 2013, Phủ Quảng Cung đã được Nhà nước xét duyệt và cấp Bằng công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Đến năm 2015, bà được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và Kỷ niệm chương vì sự nghiệp văn nghệ dân gian Việt Nam. Năm 2015, bà Trần Thị Vân lại được Chủ tịch nước ký phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú.


Không chỉ cố gắng phấn đấu cải tạo xây dựng, bà còn mua thêm đất để tạo cảnh quan cho Phủ Quảng Cung. Bà kể: “Năm 2009 mua được một góc ao, năm 2014 lại mua tiếp được 892m2, tôi nghĩ dân Nấp không có chùa nhiều năm nay, tôi để bà con mua cùng để bà con có chùa, cũng một phần vì thấy trong sách ghi chùa Tiên – Đệ nhất thiên tiên, Chùa song Phủ, Phủ song Chùa là một không gian văn hoá đẹp”.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *