1. Câu đối
Tại Phủ Quảng Cung vẫn còn lưu giữ nhiều bức hoành phi, câu đối như những chứng nhân thầm lặng kể lại những thăng trầm, biến cố từ thuở lập Phủ đến hiện tại.
Vào đời vua Lê Thánh Tông năm Hồng Đức Quý Tỵ (1473), Thánh Mẫu Liễu Hạnh hoá về thượng giới, người dân trong vùng ấp Quảng Nạp nhớ ơn công đức của bà đã cùng xây dựng đền miếu Quảng Cung, ngày đêm phụng thờ. Các vua triều Lê và triều Nguyễn sau này đã sắc phong, rồi cho nhân dân mở rộng tôn tạo thành Phủ Quảng Cung nguy nga tráng lệ Ghi lại dấu ấn này, trong tiền đường của Phủ vẫn lưu hai câu đối: “Hồng Đức tứ niên sơ lập miếu/Duy Tân ngũ tuế sửa linh từ” ( “Năm thứ tư niên hiệu Hồng Đức 1743 lập miếu thờ, năm thứ năm niên hiệu Duy Tân 1911 sửa lại đền thiêng”).
Câu đối ở phủ Quảng Cung đề vào tháng 3 niên hiệu Tự Đức 18 (1865) có ghi:
Giáng vu Vỉ Nhuế do tiền sự,
Địa hữu Sòng Sơn thuộc hậu thời.
Nghĩa là:
Sinh nơi Vỉ Nhuế là thân trước,
Việc đất Sòng Sơn ấy kiếp sau.

2. Bình Phong và Hồ Bán Nguyệt
Bình phong và hồ bán nguyệt được xây dựng liền kề với ao phủ. Bình phong có kích thước cao 3,90m, dài 7m, tạo dáng kiểu cuốn thư. Mặt trước cuốn thư đắp 4 chữ Hán: Đệ nhất linh từ, trên nền vân mây, triện gấm. Hồ bán nguyệt phía dưới xây kè đá, phía trên là thành lan can ghép bằng đá xanh. Ở giữa thành bậc lan can là bình phong nội được ghép bằng đá, trên thân trụ bình phong khắc câu đối ca ngợi công đức Thánh Mẫu.
3. Nghi Môn
Nghi môn xây dựng phía sau bình phong và hồ bán nguyệt liền kề với trục đường giao thông. Nghi môn có kích thước dài 30m chia thành 3 khoang cửa tạo dáng kiểu tứ trụ. Cổng chính tạo dựng bởi hai đồng trụ cao 4m. Đồng trụ được cấu tạo gồm ba phần: đỉnh trụ đắp nghê chầu, thân trụ là một khối có cạnh hình vuông rộng 0,40m, niềm tạo gờ chỉ nhấn câu đối ca ngợi công đức của Thánh Mẫu.

Toà tiền đường 5 gian 2 chái có kích thước dài 21m, rộng 11m kết cấu kiểu cổ đẳng 3 tầng 8 mái. Phần cổ đẳng nối mái tầng 1 với tầng 2 chia thành 5 khoang, khoang giữa đắp 6 chữ Hán: Quảng Cung tiên chúa linh từ.
Tại tòa cung cấp có treo bức đại tự “Sinh thời cố trạch” (nhà cũ lúc sinh thời của Thánh Mẫu)
